st1\:*{behavior:url(#ieooui) }
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA - ĐÌNH MAI XÁ
XÃ HIỆP LỰC - HUYỆN NINH GIANG - TỈNH HẢI DƯƠNG
I. KHÁI
QUÁT CHUNG:
Đình Mai Xá
(còn có tên gọi là đình Hóp Mòi), thôn Mai Xá, xã Hiệp Lực, huyện Ninh Giang, tỉnh
Hải Dương.
Mai xá là
một trong những mảnh đất được hình thành khá sớm trong lịch sử dân tộc do quá
trình bồi đắp phù sa của sông Luộc. Nhân dân Mai Xá có truyền thống sản xuất
nông nghiệp trồng lúa nước từ rất lâu đời.
Vào đầu thế
kỷ 19, Mai Xá (tên nôm là làng Hóp Mòi)
là một trong bốn thôn của xã Lực Đáp (Mai
Xá, Tiền Liệt, Trung và Thọ Đa) tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng,
trấn Hải Dương.
Tục truyền
xưa các thôn: Mai Xá, Tiền Liệt, Trung và Thọ Đa có lệ ”kết chạ” với nhau, gắn bó sâu sắc bởi cùng nhau chung một sự tích
thành hoàng có nguồn gốc từ siêu lực tự nhiên.
Cũng như
nhiều làng xã khác tại khu vực đồng bằng Bắc Bộ, thôn Mai Xá dựng đình thờ
Thành Hoàng từ khá sớm. Di tích là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng chung của
cộng đồng làng xã. Theo dòng lịch sử, tên đình gắn bó một cách tự nhiên với tên
thôn và sớm trở thành niềm tự hào của các thế hệ người dân Mai Xá.
Nay thôn
Mai Xá là một trong bốn thôn của xã Hiệp Lực, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Thôn Mai Xá
được hình thành khá sớm trong lịch sử. Căn cứ vào những thư tịch và di khảo cổ
học đã phát hiện có thể xác định mảnh đất thôn Mai Xá hình thành muộn nhất vào
thời Tiền Lê (TK 10).
Theo văn bia: “Lê triều vạn vạn tuế, Trịnh chúa vạn vạn
niên, Lưu truyền vạn vạn đại, lập miêu đình bi ký” khắc dựng năm Chính
Hòa thứ 13 (1692).
Mai Xá là 1
trong 4 thôn thuộc xã Lực Đáp. Nhân dân Lực Đáp cư trú ven hai bờ sông Chu
Giang. Thôn Mai Xá có 20 dòng họ cùng chung sống gồm Mai, Đào, Lê Lương, Đào
Kim, Nguyễn, Đào Văn, Đào Viết, Nguyễn Văn, Đỗ, Đặng, Trần… Trong đó có 02 dòng
họ cư trú lâu đời nhất là họ Đào và họ Lê, đến nay đã qua 21 đời (tương đương 630 năm).
Thôn Mai Xá
xưa có 02 giáp: Vĩnh Long và Trung Tín, giáp Vĩnh Long có nhà thờ riêng (nay đất cũ vẫn còn, một phần đã chia cho
dân ở). Giáp Trung Tín sinh hoạt tại nhà thờ họ Lê Lương ( bởi giáp này chỉ có một họ).
Xã Hiệp Lễ ”
Nhất xã, nhất thôn”. Đời sống chính của nhân dân dựa vào nghề sản xuất
nông nghiệp trồng lúa nước, phong tục thuần hậu.
Sau cách mạng tháng 8/1945, thực hiện chủ trương điều chỉnh địa giới
làng xã của Chính phủ: Hai xã Lực Đáp và xã Hiệp Lễ sáp nhập thành một xã mới
lấy tên là xã Hiệp Lực. Xã Hiệp Lực thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Căn cứ vào
bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương hiện hành xã Hiệp Lực có vị trí địa lý: Đông
giáp thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Tây giáp xã Hồng
Phong. Bắc giáp xã Hồng Dụ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Nam giáp Sông Luộc- Địa giới 2 tỉnh Hải Dương
và Thái Bình.
Xã Hiệp Lực
có 514,64 ha đất tự nhiên, trong đó có 328,97 ha đất canh tác với 6192 khẩu, 1900
hộ. Toàn xã có 04 thôn: Hiệp Thọ, Mai Xá, Hiệp Trung và Tiền Phong. Xã Hiệp Lực
là một trong số địa phương có phong trào làm thủy lợi giỏi của tỉnh Hải Dương. Ngày 26/7/1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về
thăm và động viên cán bộ và nhân dân địa phương. Tai đây Người đã cùng nhân dân
đạp guồng nước chống úng. Hình ảnh người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước tham gia trực tiếp làm thủy lợi trở thành niềm tin và động lực thi đua sản
xuất giỏi của xã Hiệp Lực.
II. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT ĐƯỢC THỜ
Căn cứ vào
kết quả nghiên cứu khảo sát di tích và các thư tịch cổ liên quan, đình Mai Xá
là nơi thờ Tứ vị tôn thần gồm: Ông Thinh,
Ông Linh, Phúc Chính và Đào Từ Nhân. Trong đó ông Thinh, ông Linh là Thiên Thần, Phúc Chính và Đào Từ Nhân là
nhân thần được thờ theo tín ngưỡng
dân gian từ lâu đời của nhân dân địa phương.
Theo tài
liệu: “Thần tích, thần sắc” năm 1938
của xã Lực Đáp hiện lưu trữ tại Viện thông tin khoa học xã hội Hà Nội thì hành
trạng của các Thành hoàng Mai Xá có thể tóm tắt như sau:
Tục truyền
vào một hôm thượng tuần tháng 11 âm lịch, dân làng Hóp bỗng thấy một cây gỗ
tròn rất to trôi dạt vào bến đò thuộc địa phận làng. Mọi người thấy lạ liền bảo
nhau tới xem rất đông rồi xúm lại kéo vào bờ nhưng lạ thay không đưa vào được
và cũng không đẩy ra được(!?). Ngay ngày hôm sau dân làng và gia súc vật nuôi
xảy ra dịch bệnh. Người làng ai nấy đều vô cùng lo sợ… Được mấy hôm, một viên
kỳ lão cao tuổi nhất trong làng đêm nằm lo nghĩ việc tai biến mà trằn trọc mơ
màng bất giác thấy 5 người tướng mạo đàng hoàng, áo xiêm chỉnh tề đến nhà gọi
ông lão bảo rằng:
“Chúng ta là 5 anh em dưới thủy phủ, nay bảo rõ cho
nhà ngươi biết: Dân làng phải cắt ngay cây gỗ trôi đến bến đò mà tạo thành 05
cỗ long bài đề húy hiệu anh em ta: Thứ nhất là ông Thinh, thứ hai là ông Linh,
thứ ba là ông Bình An, thứ tư là ông Phả Thiện và thứ năm là ông Quảng Nghiêm.
Các thôn Tiền, Trung, Thọ cứ theo thứ tự anh em ta mỗi thôn thờ một vị. Cứ tuân
phụng như thế thì trong làng sẽ hưng thịnh và khỏi tai biến hiện thời”. Nói đoạn, các thiên thần bỗng biến mất… Giật mình
tỉnh giấc, viên kỳ lão mới hay là trong giấc mộng, cho đó là điều linh ứng, ông
liền cho họp cả làng lại để bàn bạc. Các viên kỳ lão trong làng đều đến dự đông
đủ và nhất tâm sửa lễ. Từ đó các thôn đều thờ thần tại đình và dân làng được yên
ổn.
Theo dòng
lịch sử, đến thời Lê-Mạc (TK 16), dân
thôn Mai Xá gặp cơn binh hỏa, nhiều gia đình phải lưu tán khắp nơi. Phúc Chính
và Đào Từ Nhân công chúa trong triều đã phát tâm công đức, cấp phát lương thảo
tiền bạc để tu sửa miếu đình, kiến thiết nhiều việc có ích khiến cho dân Mai Xá
phồn thịnh hơn trước. Vì vậy sau khi các vị qua đời, dân Mai Xá nhớ ơn xin
phong lĩnh tôn hiệu hai vị hợp tự tại đình cùng với hai vị thiên thần.
Đến cuối
thời Lê Trung Hưng (TK 18) có quan
quận công đem quân đi đánh dẹp giặc He (tức
Nguyễn Hữu Cầu) đi qua sông thuộc địa phận làng đã vào lễ đình các thôn.
Trận ấy đánh giặc thắng lợi, quan Quận công lập tấu sớ triều đình ban sắc phong
cho bản xã.
Trải qua
các triều đại phong kiến, Tứ vị tôn thần đều được sắc phong vào năm Cảnh Hưng
thứ 4 (1743), Cảnh Hưng thứ 44 (1783), Quang Trung thứ 4 (1791), Tự Đức thứ 6 (1853), Tự Đức thứ 33 (1880), Đồng Khánh thứ 2 (1887), Duy Tân thứ 3 (1909) và Khải Định thứ 9 (1924).
Căn cứ vào
tấm bia đá: “Lê triệu vạn vạn tuế, Trịnh
chúa vạn vạn niên, Lưu truyền vạn vạn đại, lập miếu đình bi ký” hiện còn
lại di tích. Đình Mai Xá được dựng vào năm Chính Hòa thứ 13 (1692) tại xã Lực Đáp, tổng Bất Bế,
huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Vùng đất này là nơi: “ rồng chầu, hổ phục” phía trước có dòng
sông quanh co uốn khúc là nơi hội tụ khí thiêng “Địa linh nhân kiệt”, sinh ra nhiều bậc hiền tài có công giúp nước,
bảo vệ cuộc sống nhân dân ổn định. Nhân dân đã dựng đình và khắc bia ghi nhận
tính danh của những người đóng góp công đức để lưu truyền lâu dài.
Kiến trúc tổng thể di tích cũ không còn song căn cứ vào dấu vết nền
móng, ngôi đình ban đầu được xây theo kiểu chữ “Đinh” ( J ) gồm 5 gian Đại bái và 3 gian Hậu cung với quy mô khá
lớn. Xung quanh đình có nhiều ao hồ. Đình Mai Xá là một trong những kiến trúc
cổ đẹp nổi tiếng đương thời trong vùng.
Căn cứ vào
hệ thống văn khắc Hán nôm hiện còn tại Đại bái, đình Mai Xá được trùng tu vào
ngày lành, tháng nhuận, năm Thành Thái- Quý Mão (1903). Các cụ cao niên trong
thôn Mai Xá cho biết: lần trùng tu này toàn thể nhân dân trong bản xã đóng góp
công đức. Công trình do ông Lê Lương Hãnh- Tiên chỉ làng Mai Xá trực tiếp đặt
chồng nóc; ông Mai Quang Oanh làm” Giám biên” (ghi chép), ông Lê Lương Oánh làm
“Giám chương” (đôn đốc nhân công), ông Đào Đình Uyển làm “Thủ quỹ” (giữ tiền và
mua bán hàng hóa). Hai hiệp thợ Nam Hà cùng thi công, nửa phía tây do thợ Cao
Đà, nửa phía đông do thợ Đông Hồ thực hiện. Theo yêu cầu của các Hương lão: sau
khi thống nhất quy cách, kiểu dáng, các hiệp thợ bí mật trổ tài, nếu bên nào
làm đẹp sẽ được thưởng. Kết quả là cả hai đều chạm khắc rất thành công được bản
xã thưởng lớn. Đình Mai Xá là một trong số ít công trình đẹp nổi tiếng trong
vùng đương thời.
Năm 1946- 1947, hưởng ứng phong trào: “Diệt giặc dốt” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, địa phương đã
cho tháo dỡ sàn đình để đóng bàn ghế cho các lớp “Bình dân học vụ”, góp phần cùng cả nước “Kháng chiến, kiến quốc” thành công.
Năm 1948,
Ban thông tin văn hóa xã đã tiến hành vẽ tranh cổ động “Chiến thắng Sông Lô” tại đầu hồi phía Tây và viết khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh muôn năm” khá lớn trên mái
trước của đình thể hiện quyết tâm chống Pháp của cán bộ nhân dân xã Hiệp Lực.
Năm 1949,
cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra cam go ác liệt, lực lượng du kích xã quyết
định đào hầm bí mật tại Hậu cung đình để bám trụ đến cùng chống Pháp càn quét,
bảo vệ quê hương.
Tiếp đến
năm 1956, đình là nơi chính quyền tổ chức đấu tố địa chủ, thực hiện cải cách
ruộng đất thắng lợi. Năm 1965, thực hiện chủ trương “Bài trừ mê tín dị đoan” của huyện, địa phương đã cho giải hạ Hậu
cung lấy vật liệu xây dựng công trình phúc lợi trong xã, nhà Đại bái trở thành
nơi họp bàn chỉ đạo sản xuất nông nghiệp của xã.
Năm 1971, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể cán bộ và nhân dân địa
phương, Đảng bộ và chính quyền xã Hiệp Lực đã xin phép Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hải
Hưng tổ chức dựng tượng đài Hồ Chủ Tịch. Công trình đã được thi công nhiều
tháng tại đình trước khi đưa về lắp dựng chính thức tại khu vực trung tâm của
xã.
Những năm
gần đây, nhân dân địa phương tự nguyện công đức tu sửa, từng bước trả lại vẻ
đẹp vốn có của di tích. Hiện tại đình Mai Xá là nơi sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng lành mạnh và học tập đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước của nhân
dân địa phương.
* Lễ hội và một số sự tích liên quan:
- Lễ hội:
Vào ngày
10- 15/11 âm lịch hàng năm, nhân dân 3 thôn: Thọ Đa, Hiệp Trung và Tiền Liệt
cùng kiệu rước về đình Mai Xá tổ chức lễ hội tôn vinh công đức các Thành Hoàng.
Lịch trình lễ hội được quy định khá chặt chẽ. Ngay từ đêm 9/11 âm lịch làng đã
tổ chức “lễ vũ dội” (bao sái đồ thờ).
Tham gia sửa lễ gồm những “ông Nhất”
(tuổi từ 53 trở lên) và những chức dịch trong làng. Công việc được tiến
hành thận trọng, sau khi dâng lễ xong mới được thực hiện. Thời gian diễn ra
trong khoảng 01 giờ là hoàn tất.
Sáng ngày 10/11,
nhân dân tập trung tại đình. Hội đồng kỳ mục tổ chức cắt cử người tiến hành lễ
tế. Đội tế thường có từ 12- 14 người, chủ tế do phó lý tham gia. Lễ vật gồm:
hương, hoa, oản, rượu được bày đặt chu đáo theo điển lễ. Thời gian tế lễ diễn
ra từ 2- 3 giờ. Đến tối làng tổ chức hát chèo tại sân đình, thu hút đông đảo
nam phụ, lão ấu tham dự. Thực hiện chèo hát do những đào kép là người địa
phương. Vào những năm “Phong đăng, hòa
cốc” làng mới cho mời đào kép các làng bên tham gia.
Ngày 12-
14/11 làng cho mở cửa đình để mọi người dân đến lễ bái mà không tổ chức tế. Đến
ngày 15/11 nhân dân ra đình tổ chức lễ tạ thành hoàng và kết thúc lễ hội.
Cũng như nhiều làng xã khác, lễ hội đình Mai Xá xưa được tổ chức rất
trọng thể. Để tránh tên hèm (tên chính
của thành hoàng) nhân dân địa phương có lệ nói hoặc viết: Ông “Thinh” thành ông “Thuông”, ông “Linh”
thành ông “Lanh”.
Sau cách
mạng tháng 8/1945, do nhiều nguyên nhân lễ hội truyền thống xưa không được tổ
chức, một số tập tục liên quan “hèm, húy”
thành hoàng cũng được loại bỏ. Lễ hội đình Mai Xá đã tiếp thu nhiều yếu tố mới,
phù hợp với cuộc sống hiện đại.
- Sự tích tiên sa:
Tục truyền
xưa Mai Xá có nhiều phụ nữ xinh đẹp, không ít quan lại trong triều đình đã về
làng chọn vợ. Vào một đêm có anh thư sinh người làng Mai Xá mơ thấy có một nàng
tiên sa xuống cánh đồng làng mình. Tỉnh giấc, không kìm được xúc động và khát
khao, anh thư sinh đã tự vẽ hình cô tiên và thuê thợ giỏi khắc thành tượng rồi
cho sơn son thếp vàng. Sau thấy tượng cô tiên đẹp, dân làng đã đưa vào đình để
thờ.
Hiện tại
đình Mai Xá có tượng cô tiên, thân hình cân đối đẹp mắt, hai tay gắn liền với
hai cánh chim dang rộng trong tư thế bay từ trên cao hạ xuống. Tượng được gắn
tại trụ trốn gian dĩ góc tây bắc đình làng.
- Sự tích Cánh Đồng Sao:
Theo truyền
ngôn tại khu vực Cánh Đồng Sao (nay thuộc
xóm 10 thôn Mai Xá) có một mảnh thiên thạch to bằng nửa chiếc chiếu tự rơi
xuống cánh đồng làng vào nửa đêm. Những năm được mùa, đêm về dân làng thường
thấy có một chú bé mặc áo đỏ thấp thoáng hiện trên cánh đồng.
Vào những
năm 1955- 1960 nhân đân địa phương còn thấy chóp mảnh thiên thạch nhỏ tại góc
cánh đồng làng. Song qua nhiều năm không ai để ý đến, nay phù xa đã lấp kín.
III.
KIẾN TRÚC DI TÍCH
1. Vị trí, cảnh quan:
Tọa lạc
trên mảnh đất bằng phẳng, rộng rãi, đình Mai Xá là nơi sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng lâu đời của nhân dân địa phương. Di tích được xây dựng theo hướng Nam.
Theo Kinh Dịch phương Nam
chủ màu đỏ, nóng ấm, mọi vật đều sinh sôi phát triển. Trải qua nhiều biến động
của tự nhiên và xã hội, cảnh quan di tích hiện tại được xác định như sau:
Phía trước
giáp đường liên thôn và khu Đống Đá 99 viên, tương truyền là nơi đặt mộ của bà
Đào Từ Nhân công chúa- thành hoàng làng, không gian thoáng rộng gắn liền với
khu ao đình. Phía sau tiếp giáp khu vực vườn đình và nhà trẻ của thôn Mai Xá.
Tại đây có tấm bia đá hình trụ vuông bốn mặt khắc dựng năm Chính Hòa thứ 13 (1692), đất rộng 1298 mét vuông tiếp
giáp khu vực xóm Cầu Đông và xóm Cầu Tây. Bên Tả liền với đường đi xã Hồng Dụ (Ninh Giang) và khu dân cư đông đúc được
hình thành từ những năm 70 của thế kỷ trước. Bên hữu là khu dân cư được hình
thành ổn định lâu đời. Điểm khác biệt với nhiều nơi là từ xưa đình Mai Xá không
có Nghi Môn và Giải vũ nghỉ chân và sửa lễ của nhân dân.
2. Kết cấu và trang trí nghệ thuật:
Đình Mai Xá
được xây dựng kiểu chữ Đinh ( J ) gồm 5 gian Đại Bái và 3 gian Hậu cung; Đại
bái tạo dáng đạo dĩ, Hậu cung xây bít đốc bổ trụ truyền thống. Công trình được
tu bổ, tôn tạo trong những năm gần đây bằng đóng góp công đức của toàn thể nhân
dân trong thôn.
Từ ngoài
nhìn vào, nhà Đại bái gồm 5 gian lợp ngói mũi kiểu “vỏ sò” (loại vật liệu phố biến vào đầu thời Nguyễn- TK 19). Bờ nóc
soi chỉ kép chạy suốt, hai đầu có đôi rồng kìm (lạc long) được cách điệu gối thân trên đấu vuông rêu phong cổ
kính. Hệ thống đao mái uốn cong được đắp hình tượng “tứ linh” (Long, Ly, Quy, Phượng), xen kẽ góc chối của bờ mái còn
được các nghệ nhân thể hiện hình tượng nghê múa chầu khá đẹp mắt. Tuy nhiên do
năm tháng và chiến tranh, các chi tiết điêu khắc nghệ thuật đã rơi rụng một
phần. Trong khi đôi nghê tại góc chối mái trước còn nguyên vẹn, thì đôi nghê
tại góc chối mái sau đã biến đổi hoàn toàn.
Kết cấu
ngôi nhà gồm toàn bộ hệ thống cột, xà hoành, dui bằng gỗ lim. Liên kết ngang
gồm 04 bộ vì chính theo kiểu “giá
chiêng”, lòng mái mở theo thức: “Thượng
tứ, hạ ngũ” trên cơ sở “con chồng,
đấu sen”, được chạm khắc tinh xảo. Liên kết dọc gồm hệ thống xà, hoành được
bào soi “vỏ măng” nối liền các bộ vì
thông qua các “mộng mang cá”. Hai
gian dĩ được hạ khoảng bằng bộ “xà đùi”
gối đỡ “trụ trốn”, tại đây kết cấu
kiến trúc cũng được thể hiện theo lối “con
chồng, đấu sen” truyền thống.
Nối liền
Đại bái là 03 gian Hậu Cung được khôi phục trong những năm gần đây trên nền đất
cũ. Kết cấu, kiểu dáng phỏng theo Đại bái, chất liệu được sử dụng bê tông giả
gỗ khéo léo, đẹp mắt.
Trang trí
nghệ thuật của công trình được thể hiện tại 02 bức cốn gian giữa, 04 đôi đầu dư
và 06 đầu bẩy phía trước. Đề tài nghệ thuật chính khai thác là các hình tượng “Tứ linh”, “Tứ quý” với nhiều bố cục
khác nhau. Các đồ án đều rất phong phú, sinh động ghi nhận tài năng, tình cảm
của các nghệ nhân dân gian đương thời. Quan sát thực tế tại di tích cho thấy
hai nửa đình mang phong cách nghệ thuật của 2 hiệp thợ khá rõ. Điều đó phù hợp
với lịch sử xây dựng đình Mai Xá. Đáng chú ý là 02 bức cốn gian thờ trung tâm
và 01 bức cốn thế vì gian trước Hậu
cung được chạm khắc hết sức công phu, đường nét mềm mại lạ thường… Thông qua
nghệ thuật chạm “bong chênh” kết hợp
với “chạm lộng”, các nghệ nhân xưa đã
tạo cho hình tượng “lưỡng long chầu
nguyệt” thêm sống động, hình thành không gian thiêng liêng nơi thờ tự.
3. Bài trí thờ tự:
Do di tích
mới được tu bổ, tôn tạo nên bài trí thờ tự đình Mai Xá còn khiêm tốn so với
trước đây. Tại ban thờ chính (gian giữa
Đại bái) hiện có 01 cỗ ngai Công đồng thờ chung cho cả 04 vị thành hoàng
làng gồm: ông Thinh, ông Linh, Phúc Chính và Đào Từ Nhân công chúa. Trong thời
gian tới, việc thờ tự tại di tích mới thực ổn định.
Căn cứ vào
tư liệu lịch sử ghi nhận, nhân dân địa phương đã công đức một số câu đối, đại
tự ca ngợi cảnh đẹp di tích và quê hương gồm:
a. “Thượng
đẳng tối linh” (Quý mùi
niên).
Nghĩa là:
Vị thần bậc thượng đẳng tối linh nhất.
(Quý mùi năm 2003).
b. “Tứ
cố ngoại long chầu, hổ bái
Cửu bệ trung
lân vũ, phượng tường”.
Nghĩa là:
Ngoài bốn bên rồng chầu, hổ bái
Trong chín
bệ lân múa, phượng bay.
c. “Hoa
ngạc tương đồng cầu hạnh phúc
Huyền ca chi
thanh đạt hân hoan”.
Nghĩa là:
Hoa lá cùng nhau cầu hạnh phúc
Múa vui ca
hát đạt hân hoan.
d. “Cửu
khúc loan hồi long khể tảng
Nhất sơn tỉnh
trấn phượng hàm châu”.
Nghĩa là:
Chín khúc quanh co rồng bái lạy
Một non yên
tĩnh phượng ngậm châu.
Tóm lại: Mặc
dù những biến đổi nhất định do năm tháng, song đình Mai Xá vẫn là công trình
kiến trúc thời Nguyễn (TK 19) tiêu
biểu của huyện Ninh Giang (Hải Dương)
xứng đáng được bảo tồn lâu dài.
Là một
trong những địa phương nằm ven Sông Luộc, nhân dân thôn Mai Xá, xã Hiệp Lực,
huyện Ninh Giang (Hải Dương) có
truyền thống canh tác nông nghiệp từ lâu đời. Từ thuở dụng nước, người Việt
đồng bằng Bắc bộ nói chung và Mai Xá (Hiệp
Lực) nói riêng đã sớm hình thành tín ngưỡng cầu “phồn thực”, thờ các siêu lực tự nhiên như: Mây mưa, sấm chớp để
mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống no đủ hạnh phúc.
Đình Mai Xá
là nơi thờ thủy phủ (thủy thần). Thần
tích khá ly kỳ, song thực chất là truyền thuyết về thờ thần nước- nguồn tài
nguyên phục vụ sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước và nuôi sống con người. Đây
chính là di sản văn hóa phi vật thể của làng xã gắn với di tích cần được trân
trọng bảo vệ.
Theo dòng
lịch sử, di tích còn được phối thờ thêm Phúc Chính và Đào Từ Nhân công chúa là
hai vị nhân thần có quan hệ sâu sắc với nhân dân Mai Xá (cứu giúp dân làng qua cơn binh hỏa chiến tranh). Hàng năm địa
phương tổ chức lễ hội trọng thể, tôn vinh người có công, góp phần giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước cho cán bộ và nhân dân.
Mặc dù trải
qua nhiều năm tháng và chiến tranh, song đình Mai Xá còn bảo lưu được kiến trúc
gỗ khá đẹp mắt. Tòa Đại bái không chỉ có qui mô lớn mà còn được các nghệ nhân
xưa chạm khắc tinh xảo. Các đề tài “Tứ
linh” (long, ly, quy, phượng) “Tứ quý” (tùng, cúc, trúc, mai) được khai
thác ở nhiều góc độ khác nhau rất sinh động. Đặc biệt là xuất phát từ tín
ngưỡng dân gian tại đây còn có 01 pho tượng Tiên cô được chạm khắc công phu,
sơn son thếp vàng mang phong cách nghệ thuật cuối thời Lê Trung Hưng (TK 18) khá độc đáo cần được nghiên cứu
và bảo tồn.
Cùng với
kiến trúc nghệ thuật, di tích còn lưu giữ được 01 tấm bia ghi nhận việc lập
đình năm Chính Hòa thứ 13 (1692), xác
định rõ sự tồn tại song song giữa vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cán. (Lê Triều vạn vạn tuế, Trịnh chúa vạn vạn
niên…). Đây là giai đoạn lịch sử đặc thù của nước ta. Tấm bia được coi là
một trong những tư liệu lịch sử quý hiếm phục vụ công tác nghiên cứu khoa học
xã hội và nhân văn./.